1001 câu hỏi để nói chuyện với đối phương
ContentsChức năng của văn học là gì?Các chức năng của văn họcChức năng nhận thức.Chức năng thẩm mĩ của văn họcChức năng giáo dục của văn họcChức năng giao tiếp của văn họcMối
Chức năng của văn học là gì? Văn học, từ rất sớm đã được coi là một nguồn tài nguyên vô cùng quý giá trong văn minh của con người. Từ những câu chuyện cổ xưa được truyền miệng qua thế hệ, cho đến những tác phẩm văn học kinh điển được viết bằng mực và giấy, văn học luôn chứa đựng sức mạnh và ý nghĩa sâu sắc. Nếu bạn chưa thực sự hiểu chức năng của văn học và mối quan hệ giữa các chức năng thì hãy theo dõi bài viết sau đây của Nghề Content nhé!
Chức năng của văn học là nhiệm vụ vị trí của văn học trong đời sống xã hội, là tác dụng, thành quả xã hội của văn học so với đời sống tinh thần của chúng ta. Văn học là hiện tượng đa công dụng, những tính năng gắn bó hữu cơ không tách rời nhau. Sự gắn bó giữa những tính năng làm cho văn học có sức tác động sâu xa, bền bỉ, có sức sống mạnh mẽ, bền lâu trong đời sống tinh thần của chúng ta.
Đề cập chức năng của văn học là đề cập mục tiêu sáng tác tác phẩm văn học, đến vướng mắc viết để làm gì. Có rất nhiều tiêu chí phân biệt sự khác nhau giữa văn học và các môn khoa học khác. Tuy nhiên có lẽ M. Gorki đã từng nói rất đứng đặc thù của bộ môn: “Văn học là nhân học”. Văn học là khoa học, khám phá toàn cầu tâm hồn, tính cách con người, văn học có công dụng riêng, biểu hiện trên ba mặt chính : nhận thức – giáo dục – thấm mỹ.
Xem thêm: 50+ Mẫu đề tài đồ án tốt nghiệp công nghệ thông tin tốt nhất
Văn học có công dụng khám phá những quy luật khách quan của đời sống xã hội và đời sống tâm hồn của con người. Nó có khả năng đáp ứng mong muốn của con người mong muốn hiểu biết về toàn cầu xung quanh và chính chính mình. Không phải ngẫu nhiên đã có người cho rằng: “Văn học là cuốn sách giáo khoa của đời sống”. Chính cuốn sách ấy đã thể hiện một cách tinh tế và sắc sảo từng đổi thay, từng bước vận động của xã hội. Nó tựa như “chiếc chìa khoá vàng mở ra muôn cánh cửa bí ẩn, đưa chúng ta tới ngưỡng cửa mới của sự hiểu biết toàn cầu xung quanh”
Văn học mang lại những kiến thức bách khoa về hiện thực đời sống
Văn học cung cấp tri thức, mang đến sự hiểu biết, giúp con người khám phá thế giới hiện thực. Khác với khoa học, văn học nhận thức hiện thực không theo kiểu phân môn biệt loại mà phản ánh cuộc sống trong toàn bộ tính tổng hợp vẹn toàn của nó. Cho nên văn học có khả năng cung cấp những kiến thức bách khoa về con người. có khả năng tìm thấy trong tác phẩm văn học những tri thức về thiên nhiên, vũ trụ. Có một mức độ nào đấy thần thoại là nhận thức về vũ trụ, chúng ta, thế giới. Những tác phẩm hiện đại như Sông Đông êm đềm của M. Sholokhov, Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi, Dế mèn phiêu lưu kí của Tô Hoài đã mang lại cho người coi nhiều tri thức bổ ích về chia loại thực vật và tập tính của rất nhiều giống loài động vật.
Văn học là cái kho chứa khổng lồ những tri thức về đời sống xã hội (vì đời sống xã hội là đối tượng nhận thức trung tâm ). Văn học cho thấy được phong tục tập quán của nhiều địa phương, nhiều dân tộc. Những tiểu thuyết lịch sử như “Tam quốc diễn nghĩa” của La Quán Trung, “Hoàng Lê nhất thống chí” của Ngô gia văn phái đưa ta về quá khứ xa xăm của các dân tộc. Thơ văn Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu làm sống lại cuộc sống đau thương và hào hùng của dân tộc ta. Những tác phẩm thuộc trào lưu hiện thực giai đoạn 1930 – 1945 hướng trọng điểm vào vướng mắc con người trước hoàn cảnh sống đặc biệt là công đoạn bần cùng hóa của một phòng ban nông dân.
Văn học chứa đựng những sự kiện lịch sử, lưu trữ lời ăn tiếng nói của người xưa, mang lại tri thức có giá trị về lịch sử kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa. Ẳng ghen từng đề cập về bộ Tấn trò đời của Ban-zac: “Xung quanh bức tranh trung tâm này Ban zắc tập trung tất cả lịch sử nước Pháp trong số đó ngay cả vè khía cạnh các điểm quan trọng kinh tế tôi cũng đã biết nhiều hơn- các sách của tất cả các chuyên gia, các nhà sử học, kinh tế học, tổng hợp và thống kê học thời ấy cộng lại”. Văn học mô tả các hiện tượng, đối tượng mục tiêu thuộc thế giới tự nhiên và đời sống xã hội là để khám phá đời sống con người trong những quan hệ đầy phức tạp (cho nên hình tượng chúng ta luôn là hình tượng trung tâm của tác phẩm văn học).
Qua hình tượng nhân vật quan trọng nhất là nhân vật nổi bật nhất, văn học giúp ta tìm hiểu thân phận con người, khám phá các tính cách xã hội của một giai đoạn, một xã hội, một tầng lớp hay một giai cấp nào đó (như tính cách thể hiện dấu hiệu dân tộc trong AQ chính truyện của Lỗ Tấn, tính cách như là sản phẩm của trường hợp xã hội – lịch sử trong các sáng tác của Nam Cao, Ban zắc ).
Nhận thức cái khái quát qua cái rõ ràng, cái mới lạ trong cái quen thuộc, làm chúng ta tự nhận thức là công dụng đặc thù của văn học.
Mục tiêu cuối cùng của nhận thức là hướng đến những khái quát lớn, khám phá bản chất, quy luật của các hiện tượng đối tượng mục tiêu.Tác phẩm văn học chân chính phải đặt ra những vấn đề then chốt của thời đại, giúp người đọc nhận ra một tình trạng nhân sinh. Do phản ánh được bản chất và quy luật vận động của đời sống hiện thực các kiệt tác văn học thường chứa đựng những dự đoán về tương lai (như một vài truyện kí của Nguyễn Ái Quốc và thơ Tố Hữu trước cách mạng tháng Tám, Người mẹ và Bài ca chim báo bão của Gorki ).
Văn học giúp ta nhận thức cái chung, cái mang tính quy luật qua cái riêng cái độc đáo tưởng như ngẫu nhiên cá biệt. VD như tiểu thuyết “Tắt Đèn” của Ngô Tất Tố, “Chí Phèo” của Nam Cao, “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan ta thấy chị Dậu, Chí Phèo, anh Pha mỗi người có ngoại hình riêng, cảnh ngộ riêng, lời ăn tiếng nói cách cảm và nghĩ không giống nhau nhưng con người vẫn nhận ra số phận và tính cách chung của người nông dân nước ta trước cách mạng.
Văn học phát hiện không hề biết bao điều mới mẻ sâu xa, chí lí trong cái bình thường, dễ dàng và gần gũi, thân quen mà ta vẫn tiếp cận, nhìn thấy thường nhật. Với người coi quá trình nhận thức hiện thức đời sống trong tác phẩm tương đương với công đoạn người coi nếm trải, sồng lại từ đầu một biến cố, một tâm trạng, một tình huống hay số phận để ngộ ra, giác ngộ ra điều mà ta đã biết, đã quen tuy nhiên giờ mới thấy thấm thía. Những ai từng trải sẽ có dịp suy xét bình tĩnh và khách quan hơn, còn ai chưa từng sống qua thì nếm trải nó như chính cuộc đời. Cho nên tác phẩm nghệ thuật Mỗi lần, mỗi thế hệ không giống nhau khi xem lại, đọc lại nhiều lần đều thấy thêm nhiều điều mới mẻ. Tri thức đấy mang lại cho ta sự nhạy bén, giúp ta biết phân biệt đâu là thật là giả, thiện ác, đẹp xấu. đó là tri thức dạy khôn cho con người.
Văn học giúp ta nhận thức các giá trị tinh thần kết tinh trong toàn cầu đối tượng, khơi gợi khả năng biến quá trình tự nhận thức thế giới khách quan thành quá trình tự nhận thức về bản thân. Đây là dấu hiệu mấu chốt của chức năng nhận thức của văn học. Văn học nhận thức đối tượng mục tiêu mà trọng điểm là nhận thức các quan hệ xã hội của chúng ta, phát hiện thấy chất lượng của toàn cầu đối tượng mục tiêu mà chủ yếu là các giá trị tinh thần của chúng ta được kết tinh trong đó. Qua đó giúp ta phát hiện ra thành quả ý nghĩa của cuộc sống. Với hàng loạt câu hỏi từ nghìn đời đặt ra với con người (Mình là ai? Mình là gì ? Mình là cái gì? Mình sống để làm gì ? vì sao mình phải sống trong đau khổ? làm thế nào để có cuộc sống sung sướng? Thế nào là đúng, là sai ?)
* Tóm lại: Chức năng nhận thức là năng lực của văn học trong việc mang lại tri thức bách khoa về đời sống, đem lại sự hiểu biết, quan trọng là hiểu biết về các tính cách xã hội, những bí ẩn trong tâm hồn, giúp dạy khôn cho con người, giúp con người mài sắc cảm xúc,biết phân biệt thật giả, biết cảm nhận tinh tế sự phong phú của toàn cầu cảm tính, phát hiện cái chung, cái thực chất, cái mới lạ, sâu xa qua cái ngẫu nhiên cá biệt, cái thân thuộc, cái bình thường. Chức năng quan trọng nhất trong công dụng nhận thức là giúp con người tự nhận thức bản thân, sống cuộc sống có ý thức mạnh mẽ, sâu sắc về thành quả và năng lực bất tận của mình để phấn đấu, thông minh.
Xem thêm nhiều bài viết hay khác tại chuyên mục Học tập
Chức năng thẩm mĩ của văn học là nó có nhiệm vụ thỏa mãn mong muốn thẩm mĩ, phát hiện nhu cầu và thị hiếu thẩm mĩ cho chúng ta. Văn học đem đến cho con người những cảm nhận chân thực, sâu sắc và tinh tế nhất. Nghệ thuật sáng tạo trên nguyên tắc cái đẹp, bởi vậy không thể thoát khỏi quy luật của cái đẹp.
Văn học luôn khai thác cái đẹp ở nhiều góc độ: thiên nhiên, quốc gia, chúng ta, con người, dân tộc. thành quả thẩm mĩ của tác phẩm ẩn chứa cả nội dung và hình thức nghệ thuật. Nó mang lại cho người coi cảm nhận, rung cảm về những nét đẹp giản dị, gần gũi ở cả cuộc bình thường lẫn những nét đẹp tượng trưng, mới mẻ. Cách thức xây dựng ngôn từ của mỗi nhà văn, nhà thơ cũng đem lại nét đẹp cho tác phẩm.
Văn học làm thỏa mãn nhu cầu thẫm mĩ, giải trí, khơi dậy những khoái cảm nghệ thuật:
Chức năng thẩm mĩ của văn học có nhiều mức độ, nhiều bình diện. Ở cấp độ thứ nhất, nội dung cơ bản của đây là thỏa mãn tối đa nhu cầu thẫm mĩ để gợi dậy khoái cảm nghệ thuật.
Văn học thỏa mãn mong muốn thẩm mĩ trọng điểm bằng việc mang đến cho chúng ta sự hưởng thụ cái đẹp. Khi chưa có nghệ thuật mong muốn hưởng thụ cái đẹp đã có, công việc thẩm mĩ cũng vẫn chưa có giới hạn trong phạm vi nghệ thuật. Trong bất kì lĩnh vực nào người ta cũng sáng tạo theo quy luật cái đẹp ( cái đẹp có ở khắp mọi nơi ). nhưng sáng tạo cái đẹp không hẳn là mục đích cứu cánh của hoạt động thực tiễn và nhiều lĩnh vực công việc tinh thần khác. Chỗ khác nhau giữa nghệ thuật với các hoạt động khác ở chỗ đấy “Cái đẹp là điều kiện không thẻ thiếu được của nghệ thuật, nếu thiếu cái đẹp thì không và không thể có nghệ thuật. đấy là một định lí”. Chức năng cái đẹp là chức năng quan trọng nhất của văn nghệ. Văn học là lĩnh vực có khả năng thỏa mãn tối đa nhu cầu hưởng thụ cái đẹp. Vậy cho nên văn học nghệ thuật khơi dậy ở chúng ta khoái cảm lớn, niềm vui lớn.
Văn học mang lại sự hưởng thụ thẩm mĩ bằng nhiều cách, trước hết bằng cách mô tả phản ánh cái đẹp vốn có trong đời sống hiện thực. Cho nên đến với tác phẩm được tiếp xúc với cái đẹp của bản thân đời sống, có khả năng tìm thấy trong tác phẩm văn học muôn vàn vẻ đẹp đa dạng phong phú của cỏ cây hoa lá, sông nước mây trời. ví dụ Truyện Kiều, thơ HCM thắm chất mộng chất say trong thơ.
Văn học là nhân học, nó tôn vinh vẻ đẹp và cuộc sống con người. ví dụ thần thoại, sử thi tạo ra các hình tượng nghệ thuật kì vĩ để ngợi ca những chiến công hiển hách, ngợi ca tài năng và sức mạnh của con người. Truyện cổ tích đề cao cái thiện và những tiêu chuẩn đạo đức như là một nền tảng của nhân tính muôn đời, Văn học trung đại biểu dương những tấm gương trung liệt, nghĩa khí, văn học hiện đại phát hiện vẻ đẹp ở những nơi lấm láp, nhiều tục lụy nhất: lòng yêu cuộc sống, yêu đời, vẻ đẹp tâm hồn, vẻ đẹp của lòng nhân ái.
Trong tác phẩm văn học hình tượng được xây dựng bằng chất liệu ngôn từ cho nên tác phẩm văn học không những mang lại cho con người khoái cảm trước vẻ đẹp của đời sống mà còn khơi dậy những khoái cảm trước vẻ đẹp của chất liệu, vẻ đẹp của các phương thức, phương tiện nghệ thuật tổ chức chất liệu ấy. đó có khả năng là một từ sử dụng đắt, một câu văn hay, một đoạn thơ có tiết tấu uyển chuyển hoặc vần điệu nhịp nhàng; một cốt truyện thu hút hoặc một chi tiết nghệ thuật sinh động lột tả được cái thần, cái hồn của nhân vật. Trong tác phẩm văn học, nhà văn tìm cách tổ chức chất liệu để khắc phục lối diễn đạt thông thường nhằm giải phóng hình tượng ra khỏi ngôn từ. Cho nên hình tượng trong tác phẩm Đem lại cho ta khoái cảm về sự thống nhất cao độ giữa thông tin và hình thức nghệ thuật. Và ở đây khoái cảm trước vẻ đẹp của nghệ thuật hoàn toàn không đồng nhất với khoái cảm trước vẻ đẹp của đời sống. Ví dụ đọc Truyện Kiều ta không chỉ yêu mến Thúy Kiều mà còn thích Sở Khanh, Tú Bà, Mã Giám Sinh vì những từ sử dụng đắt, những chi tiết đẹp đẽ mà tác giả đã điểm huyệt chúng lôi chúng ra ánh sáng.
Văn học thực hiện chức năng thẩm mĩ qua hình tượng nghệ thuật. Hình tượng nghệ thuật mang lại cho tâm hồn sự hưởng thụ thẩm mĩ cao đẹp, gợi dậy những khoái cảm mạnh mẽ mà vô tư trong sáng, không gắn với những mục đích vụ lợi trực tiếp. (Vì hình tượng văn học là hiện tượng tinh thần chứ không phải vật chất. Nên trước vẻ đẹp đó ta chỉ có thể chiêm ngưỡng chứ không thể theo đuổi biến thành của riêng. vì thế hưởng thụ thẩm mĩ mà văn học Đem lại cho ta không gắn với những mục đích vụ lợi, trực tiếp, nhỏ nhen tầm thường. Mà đấy là sự hưởng thụ cao đẹp của tâm hồn. Những giây phút sống với tác phẩm văn học làm cho tâm hồn ta trong sáng: ta biết vui sướng, biết đau khổ, biết yêu, biết ghét, biết quên mình vì vận mệnh tổ quốc). Cái đẹp ở trong hiện thực đi vào nghệ thuật được nhân đôi, nhờ có nghệ thuật mà một phong cảnh, một sự việc, một chúng ta trở thành đẹp hai lần: một lần trong đời sống và một lần trong tác phẩm.
Văn học khởi tạo thị hiếu, lí tưởng thẩm mĩ, đánh thức thực chất nghệ sĩ và cảm hứng sáng tạo của con người.
Thị hiếu là khả năng định giá thẩm mĩ (năng lực biết được, đánh giá cái đẹp). Nó giúp chúng ta có năng tiếp nhận và nhận xét những khách thể khác nhau: biết phân biệt cái đẹp, cái xấu; cái thẩm mĩ với cái phi thẩm mĩ, phát hiện ra nét bi và hài trong các đối tượng và hiện tượng. Có nhiều nhân tố góp một phần hình thành thị hiếu thẩm mĩ như giáo dục, thói quen, tính nết, kinh nghiệm sống trong đó văn học giữ một vai trò đáng chú ý quan trọng. Đọc tác phẩm văn học ta tiếp cận với muôn vàn vẻ đẹp đa dạng, nhiều loại của đời sống hiện thực và cảm nhận được cả vẻ đẹp của các phương thức, phương tiện nghệ thuật. Văn học giúp ta làm giàu kho kinh nghiệm thẩm mĩ, mài sắc các giác quan thẩm mĩ thường xuyên tiếp cận với văn học nghệ thuật ta sẽ thành người sành sỏi, tinh tế, nhạy bén có chuẩn mực nhận xét riêng của mình để phân biệt cái đẹp và không đẹp trong văn học và trong cuộc sống quanh ta. Như vậy văn học có khả năng hình thành thị hiếu thẩm mĩ là bởi vậy. ví dụ bài “Thu Vịnh” của Nguyễn Khuyến gợi tả cái thanh cao, nhẹ nhàng, trong sáng của một bức tranh thu rất đặc sắc của đồng bằng Bắc Bộ. Còn vẻ đẹp trong những bức tranh thiên nhiên của Huy Cận in đậm cảm hứng vũ trụ và nỗi buồn nhân thế của cái tôi mênh mang “thiên cổ sầu”.
Văn học còn hình thành lí tưởng thẩm mĩ cho con người. Bởi vì văn học luôn luôn phản ánh hiện thực đời sống dưới ánh sáng của lí tưởng thẩm mĩ. Lí tưởng thẩm mĩ là hình ảnh các thành quả thẩm mĩ mong muốn cần nên có, là lí tưởng về đời sống ổn quan niệm của chúng ta về cái đẹp. Chẳng hạn tập thơ từ ấy là hình ảnh người chiến sĩ chuẩn bị và sẵn sàng dấn thân trên con đường cách mạng, dẫu phải hi sinh vẫn quyết tâm để xóa bỏ áp bức bóc lột mang lại tụ do cho nhân dân. Trong bài Tây Tiến của Quang Dũng là vẻ đẹp hòa hùng, dữ dội của nghệ sĩ.
Trong mọi hoạt động thực tiễn, con người luôn sáng tạo theo quy luật của cái đẹp. Văn học không chỉ khơi dậy khoái cảm thẫm mĩ, mà còn đánh thức bản chất nghệ sĩ và niềm say mê thông minh trong mỗi người. đó là chức nội dung cơ bản của chức năng thẩm mĩ của văn học nghệ thuật.
– Chức năng giáo dục là chức năng giúp xây dựng một thái độ, một tình cảm nhất định so với cuộc sống.
– Một vài biểu hiện của công dụng giáo dục:
+ Văn học giúp khởi tạo toàn cầu quan và các quan điểm chính trị, xã hội. Đã từng có cả một thế hệ thanh niên Việt Nam thời Pháp thuộc và cả thời Mĩ ngụy sau này say sưa truyền tay, chép bí mật những bài thơ của Tố Hữu, xem đấy là sự hướng tới lí tưởng giải phóng dân tộc. Nhiều chiến sĩ thời kì chống Mĩ ra trận mang trong ba lô những cuốn sách như “Ruồi Trâu”, “Thép đã tôi thế đấy”, “Chiến tranh và hòa bình”, bởi những lí tưởng cao cả của các nhân vật trong đó sẽ giúp những người chiến sĩ đó sống kiên cường hơn trong những thử thách khốc liệt của chiến tranh.
+ Văn học góp phần hình thành những khái niệm đạo đức. Mọi vẻ đẹp rực rỡ nhất của văn học nhân loại đều chăm chú vào những phẩm chất cao quý của các nhân vật. Từ các hình tượng như con cò trong ca dao, đối phương Thạch Sanh, cô Tấm trong truyện cổ tích, Thúy Kiều, Kiều Nguyệt Nga đến hình tượng chị Sứ, mẹ Suốt, mẹ Tơm, anh giải phóng quân trong thơ văn mới mẻ, những hình tượng đó ảnh hưởng thật tự tin tới quan niệm đạo đức của các thế hệ người Việt Nam
+ Văn học tác động tới tình cảm, tâm hồn của con người. Tônxtôi đã nói “nghệ thuật có khả năng làm lây lan tình cảm và cùng thể nghiệm chứng”, luận điểm của Tônxtôi nhấn mạnh văn học không những kể và tả lại sự việc mà còn lôi cuốn chúng ta vào mạch tình cảm đấy, làm cho họ không thể dửng dưng. Những giọt nước mắt xúc động, thương cảm, đớn đau cùng với nhân vật, với những câu chuyện cổ tích của Anđecxen như “Bầy chim thiên nga”, “Cô bé bán diêm” chính ở chỗ này.
+ Văn học luôn khơi dậy năng lực đồng cảm, khiến cho con người biết vui buồn trước những nỗi buồn vui của đời người. Văn học dạy ta biết yêu biết ghét, biết khinh bỉ sự phản trắc, cái tẹp nhẹp, tầm thường, cái lười biếng, độc ác gian tham. Văn học khơi dậy niềm tin vào sự tất thắng của cái thiện, niềm tin vào cuộc sống, vào tương lai, dạy cho người ta biết xả thân vì nghĩa lớn, khát khao giúp sức cho cuộc sống ngày càng đẹp hơn.
+ Văn học còn giúp thực hành và phát triển những giác quan thẩm mĩ, đó là khả năng nhận biết cái đẹp trong đời sống và trong nghệ thuật.
Lay động tình cảm chúng ta, tác động vào tình cảm là tác động vào khâu then chốt. người đọc bị xúc động say mê, lôi cuốn bởi những điều viết ra trong tác phẩm người coi sẽ dễ nhận ra những lầm lạc hoặc làm theo tiếng gọi của những điều tốt đẹp mà tác giả gợi ra. Vậy nghệ thuật cải tạo và giáo dục chúng ta bằng tình cảm và thông qua con đường tình cảm.
Trong lúc tác động và cải biến chúng ta văn học hiện ra không phải như người thầy, người thuyết giáo mà như người đồng hành, người đối thoại với độc giả. Đối thoại giữa mình với mình, giữa phần thiện và phần ác, lương tri và tội lỗi, giữa lí trí cao cả và dục vọng thấp hèn. Nó là tấm gương để chúng ta tự soi mình tự đối chiếu để phán xét người khác và bản thân. Như vậy nghẹ thuật đã chuyển quá trình giáo dục thành tự giáo dục. Giáo dục bằng nghệ thuật không có phẩm chất cưỡng bức mà là một hoạt động tự giác. Không ai bắt đọc truyện, đọc sách và cũng không ai bắt làm theo những điều trong sách, người coi tự nhận ra những điều hay dở nó thấm dần vào người coi và đến lúc làm theo lúc nào không hay. Nghệ thuật để thực hiện tốt công dụng này luôn có khuynh hướng khuếch đại cái tốt, phóng đại cái xấu để cái tốt trở nên lung linh, lộng lẫy, thu hút tu hút và cái xấu thật đáng ghê tởm và tránh xa. Nghệ thuật dễ tác động, cải biến được con người vì nó thu hút và vui tươi; giáo dục – giải trí – vui chơi đi liền với nhau từ đấy chức năng giáo dục thấm dần mỗi ngày một ít. Tác động con người dần dần, nó gieo vào chúng ta ý thức về tội ác và lỗ lầm. Ý thức ấy sẽ ngăn ngừa hành động xấu, hoặc giúp họ đấu tranh chống cái ác, cái xấu.
Do những yếu tố trên mà nghệ thuật được dùng như một thứ vũ khí tranh đấu giai cấp và tuyên truyền giác ngộ cách mạng. Cả lực lượng tiến bộ và phản động đều sử dụng văn học làm công cụ tuyên truyền, tập hợp quần chúng. Tác phẩm hay làm con người trở nên cao thượng, vị tha; tác phẩm đồi bại, phản động làm người ta trở nên độc ác và tha hóa. Vậy để văn học tác động tích cực vào quần chúng nhà văn cần ết sức nâng cao chất lượng tư tưởng, của nghệ thuật. Mọi tác phẩm đơn thuần chỉ là thuyết lí khô khan và vụng về, minh họa cho một chủ trương chính trị, một nguyên lí đạo đức nào đó không những làm tăng năng lực giáo dục mà ngược lại làm giảm đạt kết quả tốt giáo dục, hạn chế ý nghĩa xã hội của nó.
Nói đến ăn nói là nói đến sự giao lưu, thông báo, trao đổi. có nghĩa là ở đây có vấn đề người nói, người nghe, người gửi, người nhận và phương tiện để để liên lạc. Ở khâu sáng tác người viết mỗi khi cầm bút là mong muốn giãy bày, chia sẻ, cần đưa ra, không nói ra không nên. Sống cần phải giao tiếp nếu không giáo tiếp có nghĩa là không sống. vì thế con người dùng nghệ thuật như là một con đường quan trọng để giao lưu với nhau chẳng khác nào như cây cối cần giao lưu với không khí và ánh sáng mặt trời. Sáng tác trước tiên là muốn giãi bày, mang những tâm tư trằn trọc của nhà văn tác động vào người khác. Ở cấp độ thấp nó gợi sự sẻ chia, đồng cảm, ở mức độ cao hơn nó biến thành “tiếng nói chấp thuận, đồng tình” (Tố Hữu), thành sợi dây liên két, tiếng kèn tập hợp. Khi đó nó không những là công việc của một người hướng tới một người mà biến thành công việc ăn nói rộng lớn của mọi người.
Trong hoạt động giao tiếp này nhà văn không hẳn là người đưa tin truyền tin một cách bình thường chỉ dễ hiểu là truyền tải nội dung. Vì tác phẩm văn học chứa đựng tư tưởng tình cảm và mang khuynh hướng xã hội rõ nét. Tác phẩm văn học không đơn thuần là thông báo sự kiện, tri thức mà thể hiện thái độ của chúng ta trước cuộc sống, những suy nghĩ của con người trước cuộc sống. Như vậy tác phẩm văn học đưa chúng ta xích lại gần nhau không phải bằng khung cảnh, thời gian mà bằng tình cảm, tinh thần. “Chừng nào tâm hồn một chúng ta cần đến với một tâm hồn khác, chừng đấy tác phẩm nghệ thuật còn thiết yếu cho con người” (Dêgơcx). Cũng do nghệ thuật là tiếng nói của tâm hồn, nên trong tác phẩm tiếng nói đấy thường bao giờ cũng có tính chất đa thanh, đa giọng, khó hiểu hơn trong các tác phẩm chính luận và khoa học.
Ăn nói trong văn học không phải là sự thông cáo một chiều người nói/viết – nghe/đọc mà là sự trao đổi, tác động qua lại giữa nhà văn và công chúng độc giả. Mỗi đối thoại và độc thoại trong tác phẩm – giữa các nhân vật với nhau, giữa nhà văn với nhân vật đều là những hình thức khác nhau của sự đối thoại giữa nhà văn với độc giả. Khi những trải nghiệm của nhà văn trùng hợp với bạn đọc tạo nên trường hợp tri âm giữa nhà văn và độc giả.
Tác phẩm nghệ thuật còn nối liền tác giả – người coi – người đọc xích lại gần nhau hơn: họ quen nhau, hiểu nhau qua giao tiếp bằng tác phẩm nghệ thuật . Với chức năng ăn nói như trên nghệ thuật biến thành một phương tiện liên kết xã hội. đáng chú ý nhờ nghệ thuật con người có khả năng giao lưu cả quá khứ – hiện tại – tương lai, mang tiếng nói của dân tộc này đến dân tộc khác, thế hệ trước đến thế hệ sau; nó khắc phục khoảng cách về khung cảnh và thời gian mang lại sự ăn nói nhiều chiều, đem chúng ta trở nên gần nhau hơn.
Bên cạnh việc chuyển tải thông tin thẩm mĩ, tác phẩm nghệ thuật còn tác động đến nhận thức của con người, đánh thức những tình cảm, cảm giác, bản năng của chúng ta, khơi dậy sức sống và sự tin tưởng yêu, hi vọng vào toàn cầu ấy.
Một tác phẩm dù lớn hay nhỏ đều ẩn chứa những giá trị nhận thức riêng biệt. Một Xuân Diệu nồng nàn, tươi trẻ với những bước chân vội vàng, cuống quýt, vồ vập trong tình yêu; một Huy Cận mang mang thiên cổ sầu; một Hàn Mặc Tử yêu đời, yêu cuộc sống đến tha thiết nhưng đành “bó tay nhìn thể phách và linh hồn tan rã”… Những nhà thơ Mới mỗi cá nhân một vẻ, một sắc thái nhưng đã hòa cùng dòng chảy của văn học, mang đến những cảm nhận mới lạ, tinh tể, tác động thật tự tin tới tri giác, đánh thức những bản năng khát yêu, khát sống trong mỗi con người. Còn dòng văn học hiện thực lại tác động vào con người theo những hình tượng nhân vật. Một chị Dậu giàu đức hi sinh đã kiên cường đấu tranh với kẻ thống trị để bảo vệ gia đình; một Chí Phèo bước ra từ những trang văn lạnh lùng tuy nhiên ẩn chứa nhiều đớn đau của Nam Cao; một Xuân Tóc Đỏ với bộ mặt “chó đểu” của xã hội… toàn bộ đã tác động lên người đọc nhận thức đầy đủ, đa dạng về xã hội. Từ đấy khơi dậy ý thức tranh đấu giai cấp để giành lại quyền sống, ý thức cải tạo xã hội và y thức về giá trị con người.
Trên hành trình kiếm tìm, vươn tới nghệ thuật, mỗi cá nhân nghệ sĩ lại tìm cho mình một định nghĩa, một tiêu chuẩn để đánh giá văn chương, nghệ thuật. Có người cho rằng giá trị cao nhất của văn chương là do chúng ta. Có người lại quý văn chương ở sự đồng điệu tri âm: “Thơ ca giúp ta đi từ chân trời một người đến với chân trời triệu người”. Còn có người lại coi văn chương nghệ thuật là “một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà con người có, để vừa tố cáo và thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa khiến cho lòng người trong sạch và đa dạng thêm” (Thạch Lam). Nguyên Ngọc cũng đã từng khẳng định: “nghệ thuật là phương thức tồn tại của con người”…
tất cả những quan điểm các nhà nghệ sĩ đã giúp cho chúng ta nhận ra văn học là một yêu cầu cần thiết, một nhu cầu không thể thiếu của chúng ta. Ta tự hỏi chúng ta sẽ sống ra sao nếu như mai kia chẳng còn văn chương? Có lẽ tâm hồn chúng ta sẽ khô cằn, chai sạn lắm bởi văn chương cho ta được là chúng ta với hai chữ viết hoa, với đầy đủ những ý nghĩa cao đẹp.
“Văn chương giữ cho chúng ta trọn đời là chúng ta, không sa xuống thành con vật”. Văn chương nâng chúng ta lớn dậy, thanh lọc tâm hồn chúng ta. vì thế, hành trình đến với văn chương là quá trình kiếm tìm, vươn tới. “Nghệ thuật là sự vươn tới, sự hướng về, sự níu giữ mãi mãi tính người cho con người”. Xét đến cùng, hành trình của một tác phẩm văn chương là hướng con người đến con đường CHÂN – THIỆN – MĨ.
Một tác phẩm văn chương đích thực luôn luôn là sự hòa quyện của công dụng. chức năng thẩm mỹ là đặc trưng của nghệ thuật. chức năng giáo dục là nhiệm vụ của nghệ thuật. chức năng nhận thức là căn bản của văn chương. Ba công dụng của văn chương có quan hệ khăng khít và xuyên thấu về nhau để cùng tác động vào con ngươi. công dụng này đồng thời biểu hiện công dụng kia và ngược lại.
Trên đây là toàn bộ thông tin về chức năng của văn học do Nghề Content thu thập và tổng hợp, hy vọng những thông tin trên sẽ hữu ích cho các bạn.
ContentsChức năng của văn học là gì?Các chức năng của văn họcChức năng nhận thức.Chức năng thẩm mĩ của văn họcChức năng giáo dục của văn họcChức năng giao tiếp của văn họcMối
ContentsChức năng của văn học là gì?Các chức năng của văn họcChức năng nhận thức.Chức năng thẩm mĩ của văn họcChức năng giáo dục của văn họcChức năng giao tiếp của văn họcMối
ContentsChức năng của văn học là gì?Các chức năng của văn họcChức năng nhận thức.Chức năng thẩm mĩ của văn họcChức năng giáo dục của văn họcChức năng giao tiếp của văn họcMối
ContentsChức năng của văn học là gì?Các chức năng của văn họcChức năng nhận thức.Chức năng thẩm mĩ của văn họcChức năng giáo dục của văn họcChức năng giao tiếp của văn họcMối
Website chuyên trang kiến thức về công việc nghề Content, xoay quanh các chủ đề tài liệu, kiến thức, cách làm, nghề nghiệp dành cho người làm Content.
Nghề content là một website con trong hệ sinh thái website Review của Leo Agency
Liên hệ Booking, mua Guest Post Backlink, Đặt Banner
Gmail: NghecontentVietnam@gmail.com
Zalo: 0965 912 609
Định nghĩa và Cách viết Content Storytelling lôi cuốn người đọc
GHI DANH HỌC VIÊN